Đêm nào bác Hai Cụt cũng chèo thuyền ra giữa sông thả đèn hoa đăng, dù bị cấm vì nguy hiểm giao thông. Một đêm bão, thuyền bác lật, những gì xảy ra sau đó không ai có thể ngờ được …




 Bác Hai Cụt tên thật là Nguyễn Văn Hai. Biệt danh “Hai Cụt” bắt nguồn từ việc bác bị mất một cánh tay trái trong một lần cứu người giữa dòng nước lũ mười năm về trước. Bác sống một mình trong căn nhà sàn cheo leo bên mé sông, bầu bạn với con chó già tên Lu và chiếc ghe độc mộc đã bạc màu sương gió.

Ở cái vùng sông nước này, ai cũng biết thói quen kỳ lạ của bác: Cứ đúng giờ nước lớn đổ về đêm, bác Hai lại chèo ghe ra giữa dòng, lặng lẽ thả xuống những ngọn đèn hoa đăng tự chế.

Đó không phải là những chiếc đèn màu mè như ở phố thị. Đèn của bác Hai làm bằng vỏ quả dừa khô, bên trong đặt một ngọn nến nhỏ, đế được gia cố bằng đất sét để không bị lật. Nhìn từ xa, những đốm sáng lẻ loi ấy dập dềnh trên sóng nước, trông như những con đom đóm khổng lồ đang dẫn lối cho một đoàn quân vô hình.

Ngành giao thông đường thủy và chính quyền xã đã không ít lần nhắc nhở, thậm chí là cấm bác Hai thực hiện việc này.

“Bác Hai ơi, dòng này tàu kéo, sà lan đi đêm nhiều lắm. Bác chèo ghe độc mộc ra giữa dòng, lại thả đèn lập lờ thế kia, tài xế sà lan họ không thấy đường, lỡ đâm vào thì nguy hiểm tính mạng bác, mà lại còn gây tai nạn đường thủy nữa!” – Anh Nghĩa, cán bộ giao thông đường thủy, đã nhiều lần xuống tận nhà bác giải thích.

Bác Hai chỉ im lặng, đôi mắt thâm trầm nhìn ra dòng nước đỏ ngầu phù sa. Bác gật đầu nghe đó, nhưng khi màn đêm buông xuống, bóng dáng người đàn ông một tay chèo ghe, một tay thả đèn vẫn xuất hiện đều đặn. Dân làng bảo bác lẩm cẩm, bảo bác “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, thậm chí có người còn nói bác đang làm chuyện mê tín dị đoan.

Một đêm cuối tháng Chín, cơn bão số 4 đổ bộ trực tiếp vào vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Gió rít từng hồi qua rặng bần, sóng sông cuộn lên dữ dội như muốn nuốt chửng những mái nhà sàn mỏng manh.

Lệnh cấm tàu thuyền xuất bến đã được ban bố từ chiều. Vậy mà, trong tiếng gào thét của gió bão, người ta vẫn thấy ánh sáng le lói từ căn chòi của bác Hai. Bất chấp sự ngăn cản của mấy anh dân phòng đang đi tuần tra đê bao, bác Hai vẫn đẩy chiếc ghe độc mộc xuống nước.

“Bác Hai! Quay lại đi! Bão lớn lắm!” – Tiếng hét của anh Nghĩa bị tiếng gió nuốt chửng.

Giữa dòng nước dữ, chiếc ghe của bác Hai bé nhỏ như một chiếc lá tre. Bác cố gắng chèo lái bằng một cánh tay còn lại, miệng ngậm chặt chiếc đèn pin. Khi vừa ra đến giữa dòng, một con sóng lừng cao hơn sải tay ập đến.

Rắc!

Chiếc chèo gãy đôi. Chiếc ghe độc mộc lật úp chỉ trong tích tắc. Bóng bác Hai mất hút giữa màn mưa trắng xóa và dòng nước đen ngòm.

Anh Nghĩa và đội cứu hộ xã nhanh chóng huy động cano lao ra cứu người. Ai nấy đều chuẩn bị tâm lý cho một kết cục đau lòng nhất. Thế nhưng, khi đèn pha cực mạnh từ cano quét qua mặt sông, họ thấy một cảnh tượng khiến tất cả sững sờ.

Bác Hai không hề cố bơi vào bờ. Bác đang dùng cánh tay duy nhất của mình bám vào một chiếc phao nổi bằng nhựa lớn vốn được bác buộc sẵn sau lái ghe. Điều đáng kinh ngạc là, xung quanh vị trí bác Hai gặp nạn, có hàng chục chiếc tàu đánh cá nhỏ của ngư dân đang quần thảo.

Những chiếc tàu này không phải đang cứu bác Hai, mà họ đang dạt vào một khu vực bãi bồi phía xa nhờ những ngọn đèn hoa đăng của bác.

Khi anh Nghĩa tiếp cận và kéo được bác Hai lên cano, bác không hề sợ hãi cho mạng sống của mình. Bác hổn hển nói: “Mau… mau ra đoạn ngã ba sông… Có cái tàu chở cát bị mất lái, nó không thấy đường tránh cồn cát… Tôi phải thả đèn… để họ biết chỗ nông mà né…”

Hóa ra, suốt mười năm qua, việc bác Hai thả đèn hoa đăng không phải là mê tín. Bác Hai là một “lão tướng” sông nước, bác biết rõ từng rặng đá ngầm, từng cồn cát mới nổi sau mỗi mùa lũ – những nơi mà bản đồ đường thủy đôi khi cập nhật không kịp.

Hệ thống hoa đăng của bác Hai chính là một hệ thống “đèn tiêu” sống. Bác thả đèn ở những vị trí có đá ngầm hoặc dòng nước xoáy nguy hiểm. Những người dân chài nghèo, những tàu cá không có radar hiện đại, chỉ nhìn vào những ngọn đèn vỏ dừa ấy mà biết đường tránh cửa tử.

Đêm bão hôm đó, một chiếc tàu chở gạo của một hộ dân nghèo trong vùng bị hỏng máy, mất phương hướng giữa dòng. Nhờ những ngọn đèn hoa đăng cuối cùng mà bác Hai kịp thả trước khi lật ghe, họ đã nhận ra vị trí của cồn cát và chủ động cho tàu đâm vào đó để không bị dòng nước cuốn ra biển lớn hoặc va vào chân cầu cao tốc đang xây dựng.

Khi cơn bão tan đi, câu chuyện về “Hải đăng một tay” lan truyền khắp vùng. Những chủ tàu cá, những người lái sà lan từng cằn nhằn bác, giờ đây lặng lẽ mang quà cáp, vật liệu đến sửa lại căn nhà sàn cho bác.

Đội giao thông đường thủy của anh Nghĩa đã có một quyết định đặc biệt: Họ không cấm bác Hai nữa. Thay vào đó, họ cấp cho bác một chiếc cano nhỏ có động cơ và những phao tiêu chuyên dụng có đèn năng lượng mặt trời.

Giờ đây, mỗi đêm trên sông Vàm Cỏ Đông, người ta vẫn thấy những ánh đèn lung linh. Đó không còn là những vỏ dừa khô leo lét, mà là hệ thống đèn hiệu an toàn. Và người trực tiếp quản lý, chăm sóc “dải ngân hà” trên sông ấy không ai khác chính là bác Hai Cụt.

Bác vẫn chèo ghe, vẫn thả đèn, nhưng giờ đây bác không còn đơn độc. Những ngọn đèn của bác đã trở thành biểu tượng của sự hy sinh thầm lặng, là lời nhắc nhở rằng: Đôi khi, những điều bị coi là “ngớ ngẩn” hay “lỗi thời” lại chứa đựng một tình yêu thương đồng loại bao la, đủ sức soi sáng cả một dòng sông trong đêm bão tố.

Dân làng Bình An từ đó cũng bỏ hẳn biệt danh “Hai Cụt”. Họ gọi bác bằng cái tên thân thương hơn: Bác Hai Ánh Sáng.