“Đêm cuối ở quán Hương Đêm, chị Mai kéo tôi vào phòng VIP và nói nhỏ: ‘Nếu mai tao không còn ở đây nữa, đừng tìm tao… và rồi đúng vào 3h đêm hôm sau tôi thấy chị đang...”




 Quán Hương Đêm nằm ở ven quốc lộ 13 – đoạn giáp giữa thị trấn Phú Lâm và xã Tân Dực.

Ban ngày chỉ là căn nhà cấp bốn với tấm biển cũ kỹ, nhưng về đêm lại sáng rực ánh đèn đỏ, tiếng nhạc xập xình, tiếng cười nói nhòe trong khói thuốc.

Tôi – Hằng, làm ở đây đã gần một năm. Quán có 6 “chị em”, trong đó chị Mai là người nổi tiếng nhất – vừa đẹp, vừa khôn khéo, khách quen ai cũng chỉ đòi gặp chị.
Không ai biết chị đến từ đâu, chỉ biết mỗi tháng chị đều gửi đi một phong bì dày cho ai đó tên “Tú” ở Bình Dương.

Tối hôm đó là đêm thứ bảy, khách đông nghịt.
Khoảng gần 1h sáng, khi tôi đang dọn bàn thì chị Mai bước ra khỏi phòng VIP, gương mặt chị trắng bệch, môi run run.
Chị kéo tôi lại, nói nhỏ, hơi thở khét mùi rượu nhưng ánh mắt rất tỉnh:

“Hằng… mai tao có chuyện phải đi xa. Nếu mai tao không còn ở đây nữa, đừng tìm tao… nhớ đấy.”

Tôi cười gượng:

“Đi xa đâu chị, mai chủ nhật mà, khách quen toàn hẹn chị mà.”

Chị không nói gì, chỉ siết chặt tay tôi – lạnh buốt, rồi bỏ lên phòng trên gác.

3h đêm.
Trời mưa lớn.
Tôi vẫn còn thức vì phải dọn lại quầy bar. Giữa tiếng sấm, tôi nghe thấy tiếng kéo ghế từ trên gác, rồi một tiếng rơi “rầm” như có vật gì đổ xuống.

Tôi chạy lên.
Cánh cửa phòng chị Mai hé mở.
Trong ánh đèn mờ, chị Mai đang ngồi trên ghế, tóc buông rũ, trước mặt là ly rượu đổ ngang và tờ giấy trắng viết nguệch ngoạc:

“Xin lỗi… đừng để nó tìm thấy con.”

Tôi hoảng hốt lao đến, nhưng vừa chạm vào người chị, đèn vụt tắt.
Một giây sau, cửa bật mở – một người đàn ông mặc áo mưa đen đứng sừng sững ngoài hiên, nước chảy tong tong. Hắn nhìn tôi, rồi liếc xuống chị Mai.
Không nói lời nào, hắn giật mạnh tờ giấy, nhét vào túi, rồi bỏ đi trong mưa.

Sáng hôm sau, chị Mai biến mất.
Phòng chị trống trơn, vali, quần áo, điện thoại – tất cả đều gone. Quán Hương Đêm đóng cửa 3 ngày liền vì “sự cố nội bộ”.
Chủ quán – bà Phượng – chỉ nói gọn:

“Chị Mai về quê rồi. Đừng hỏi nữa.”

Nhưng ai cũng biết, chị không có quê.
Cái địa chỉ trong hồ sơ xin việc trước đây là giả, số chứng minh là của người đã chết từ 3 năm trước.

Ba tuần sau, công an đến quán.
Họ hỏi về chị Mai, nói rằng một xác phụ nữ vừa được phát hiện trôi dạt ở bờ kênh khu công nghiệp Bình Dương.
Trên cổ có đeo một sợi dây chuyền chạm chữ “T”.
Và trong túi áo, có mảnh giấy ướt nhòe dòng chữ:

“Xin lỗi… đừng để nó tìm thấy con.”

Câu chữ ấy khiến tôi lạnh sống lưng.

Ba tháng sau, khi quán Hương Đêm bị dỡ để xây khu đô thị, tôi đến dọn đồ, thấy dưới gầm cầu thang cũ có một hộp sắt rỉ, bên trong là tấm hình cũ chụp chị Mai với một đứa bé trai chừng 5 tuổi – đeo sợi dây chuyền chữ “T”.

Mặt thằng bé giống hệt người đàn ông mặc áo mưa đêm đó.

Họ nói chị Mai là “gái quán”, là “đàn bà tội lỗi”.
Nhưng đến khi hiểu ra mọi chuyện – chị chỉ là người mẹ trốn chạy khỏi kẻ đã giết chồng mình và tìm cách bảo vệ con – thì đã quá muộn.
Tôi vẫn còn nhớ như in, buổi tối cuối cùng ấy…
Trước khi bước lên phòng, chị Mai ngoái lại cười, nói nhỏ:

“Hằng, nếu mai tao không còn ở đây nữa… thì coi như chưa từng có tao nhé.”

Và kể từ đó, quán Hương Đêm chẳng bao giờ mở lại nữa.