Đám cưới xong xuôi, đêm tân h:ôn vợ chồng đang â:n á:i vui vẻ thì chị chồng xộc thẳng vào phòng nói một câu khiến tôi cả đời không quên nổi
Đêm ấy, ai cũng đã ra về. Sân nhà hàng loang lổ những vệt nước mưa cuối mùa, còn sót lại vài cánh hoa hồng tơi ra trên bậc thềm như những miếng giấy điều ai lỡ tay xé nát. Tôi ngả đầu vào vai Hoàng trên chiếc giường mới, khăn choàng voan trắng vắt ở ghế tựa như một đám mây con lạc lối. Không khí thơm mùi xà phòng mới và hoa nhài người ta cài trong áo gối. Đèn ngủ vàng nhẹ. Một ít tiếng pháo điện tử còn lắc rắc ngoài hẻm như những hạt bắp nổ muộn.
Tôi vừa đặt tay lên ngực chồng thì cánh cửa bật mở.
Chị của Hoàng – chị Mai – xộc thẳng vào. Ánh đèn hành lang lạnh ngắt chém ngang phòng như một vệt dao. Chị thở gấp, mắt long lên như người chạy đường dài tới đích và chỉ thốt một câu, từng chữ như rơi trên sàn gạch:
“Đừng tắt đèn. Em cho chị xem bả vai phải… xem có vết bớt hình lá quạt không.”
Câu đó cắm vào đêm như một cái đinh. Tôi nằm đờ, tấm chăn sa tanh trượt khỏi bắp chân, lạnh toát. Hoàng bật dậy: “Chị điên à?” Nhưng chị đã lùi ra, tay còn dính nước mưa, để lại mùi gió ẩm và tiếng dép nhựa quệt trên nền.
Đêm tân hôn rách toạc, như ai xé ngang một tấm giấy mới tinh.
Tôi gặp Hoàng khi đã đi qua tuổi 32 – cái tuổi mà mấy cô bạn cùng lớp cấp ba của tôi đứa nào cũng đã có con lớn như củ sắn, có đứa được bố mẹ cho vay mở tiệm bánh, có đứa bồng thêm đứa thứ hai, còn tôi thì mỗi chiều thứ bảy ôm cà phê lạnh ngồi nhìn bóng mình trong cửa kính. Mẹ tôi khi ấy nói chẳng còn kén chọn gì, “miễn là người ta hiền, biết thương con”, bà bảo vậy, mắt lại liếc sang cái khung ảnh bố trên nóc tủ như để lấy thêm can đảm.
Hoàng hiền thật. Cái hiền toát ra từ những ngón tay có vết chai của thợ điện lạnh, những câu trả lời ngắn mà không nhạt, từ cách anh cầm chiếc ghế cho tôi ngồi bên vỉa hè khi chờ hủ tíu. Anh không giỏi nói lời hoa lá, nhưng anh chịu khó. Mỗi buổi tối, anh hay ghé nhà tôi, tự sửa cái ổ cắm điện cứ chập chờn, thay cái công tắc bật không lên, leo lên mái kiểm tra cái téc nước cứ kêu “ộp ộp” như con ếch già. Tôi nói đùa: “Lấy anh khỏi sợ đêm mưa mất điện.” Anh cười khì khì: “Mất điện thì ngủ.”
Ngày về ra mắt, cả nhà Hoàng ai cũng quý tôi. Mẹ anh – cô Liên – dáng người nhỏ như cây sậy, cố gắng gắp cho tôi miếng ngon nhất bằng đôi đũa run run. Bố anh ít nói nhưng ánh mắt hiền như con cá bống trong nồi kho. Chỉ có chị Mai là nhìn tôi kiểu lạ: lịch sự, cười đủ mức, song vài lần tôi bắt gặp chị nhìn chòng chọc vào gò má phải của tôi, nơi có nốt tàn nhang dẹt như hạt vừng. Tôi cười xòa cho qua, trong lòng không thiện cảm lắm – cái kiểu dò xét ấy tôi từng nhìn thấy ở mấy bà bán hàng người lạ bước vào tiệm: “Nhào vô đây mua hay chỉ ngó?” Tôi đâu còn dư sức để chấm điểm từng biểu cảm của người thân chồng tương lai. Thế là tôi nghĩ, thôi cứ thế mà tiến, người ta thương mình, mình thương lại, chuyện còn lại đời sẽ tự tinh chỉnh.
Đám cưới xong. Bạn bè hò hét, hàng xóm chúc mừng. Chị Mai trao vòng cổ vàng tây cho tôi trước bàn thờ gia tiên, ánh nhìn khi ấy dịu lại: “Bên chị không có gì nhiều, mong em đừng chê.” Tôi gật đầu, cố dằn cái cảm giác gai gai trong người: người đàn bà này toan tính gì, hay tôi đang quá nhạy? Tới tối, mọi thứ tưởng đã êm như tấm ga giường kéo phẳng, như tiếng quạt trần chạy đều. Cho tới khi chị đẩy cửa, vứt câu nói kia vào người tôi như ném một con dao bếp.
“Bả vai… vết bớt… lá quạt…”
Ba chữ cuối cùng khiến tôi thao thức cả tháng trời.
Có những câu nói không cần dài mà vẫn thành bản án. Suốt đêm đó, tôi không dám tắt đèn. Tôi bảo Hoàng “mình ngủ đi”, nhưng mắt cứ mở, đếm từng đường nứt trên trần nhà. Tôi đeo áo khoác vào, soi gương. Bả vai phải của tôi có thật một vết bớt, to bằng nửa đồng xu, màu nâu nhạt, loang viền như cánh lá khô. Từ bé, mẹ thường bảo “điềm phúc”, vì hồi mới lọt lòng tôi yếu, cứ sốt hâm hấp ba ngày liền, bà ngoại bế đi xin ở đình làng một lá bùa tròn, nói là “bùa lá quạt”, bảo đặt dưới gối, ngủ dậy không khóc nữa. Mẹ cùng bà còn thêu lên gối của tôi một bông hoa năm cánh, ngay góc trái, nói “cho con gái may mắn.” Tôi lớn lên với những câu chuyện như thế, vết bớt trở thành vật trang sức tự nhiên trên thân thể, chưa bao giờ nghĩ nó sẽ là cái cớ của hoang mang.
Tôi gọi cho mẹ ngay hôm sau. Mẹ nghe xong câu chuyện im thinh thích. Tôi hỏi thẳng: “Mẹ, con là con của ai?” Mẹ cười chua: “Ai cũng là con của người sinh ra mình.” Tôi nói: “Mẹ đừng nói kiểu đó.” Đầu dây bên kia là tiếng thở dài: “Là con của mẹ.” Rồi mẹ cúp máy như người ta khép nắp hũ gạo, chắc nịch, dứt khoát, nhưng vẫn khiến tôi thấy đói.
Những ngày tiếp theo, tôi sống như người tập đi trên dây. Tôi lảng tránh Hoàng khéo đến độ người ngoài chắc tưởng chúng tôi còn trinh trắng như đôi chim mới bắt đầu học làm tổ. Hoàng giận, nhưng anh không nổi nóng. Anh chỉ hỏi: “Em bị ám ảnh câu nói của chị à?” Tôi gật. Anh thở ra: “Chị hay dựng chuyện lắm. Ngày nhỏ, chị từng nói với bố mẹ là em mượn xe chị đi đua, trong khi em đâu biết đi xe đạp… chị được cái—” Anh chần chừ, rồi nuốt câu sau. Tôi biết anh thương chị, cái thương như được nhào nặn từ những bữa cơm đạm nhạt sau khi bố thất nghiệp, từ những tối hai chị em chụm đầu học bài bên bóng đèn tù mù. Tình thương đó đòi tôi cẩn trọng. Tôi không muốn phá vỡ.
Nhưng câu nói kia thì vẫn khoét.
Một buổi chiều, tôi đến nhà mẹ chồng lấy ít đồ. Nhà trống, chỉ có chị Mai. Chị đang cắm hoa cúc trắng vào cái bình thủy tinh bầu. “Em tới lấy cái áo choàng mẹ may dở cho em,” chị nói trước, như cầm quyền chủ động cuộc chuyện trò. Tôi gật. Chị nhìn vai tôi. Tôi tự nhiên kéo dây áo lên che vết bớt. Chị mím môi, đặt bông hoa xuống. “Tối nọ chị nói quá đường,” chị bắt đầu. “Nhưng chị… cần nói. Bởi vì…” Chị ngước mắt, thứ ánh nhìn mà tôi không xác định là cứng hay mềm. “Hồi nhỏ, chị nghe lén chuyện của ba mẹ. Có một người phụ nữ – trước mẹ – đi chợ phiên bị lạc. Ba chị bế một đứa trẻ gái ngã gãy răng cửa chạy tới nhờ người gọi loa tìm mẹ cho nó. Họ nói chuyện rất lâu. Chị chỉ nhớ một câu: ‘Con bé có cái bớt hình lá quạt bên vai, y như vệt bùa.’ Sau đó, hai người… xa nhau. Ba chị vẫn giữ một bức ảnh.”
Chị vào buồng, lấy ra tấm ảnh ngả màu. Một người đàn ông trẻ – ba của Hoàng – đứng cạnh một người phụ nữ ôm đứa bé gái gầy còm. Ánh mắt họ nhìn nhau như một chiếc kim khâu giấu trong mớ vải – nhỏ nhưng nối dài không dứt. Đứa bé trong ảnh nghiêng vai, có quả thực một vết bớt mờ mờ.
“Chị thích dựng chuyện, đúng,” chị nói, giọng khàn đi. “Nhưng có những thứ đâu phải chị dựng. Chị không muốn gia đình mình vướng vào điều sai trái – nếu lỡ đâu… nếu lỡ đâu mối dây kia không đứt hẳn.” Chị ngẩng lên, hai mắt sưng đỏ. “Chị sợ nhất là có lỗi với mẹ.”
“Nhưng Hoàng—” tôi ấp úng, “Nếu… nếu là vậy… Hoàng có thể…” Miệng tôi khô khốc, lưỡi như dính vào vòm họng. Có gì đó bủa vây tôi như mạng nhện. Tôi thấy cả người nhẹ bẫng – thứ nhẹ sau cùng của một người đang rơi.
“Chị không nói Hoàng là… Em bình tĩnh,” chị ngắt. “Chị chỉ nói về vết bớt.” Cái cách chị nhấn chữ “chỉ” khiến nó nặng gấp đôi.
Đêm đó, tôi ngủ ngồi. Cả tháng trời sau đó cũng vậy.
Khi đã bị giam trong sợ hãi đủ lâu, người ta sẽ tìm cách bẻ chấn song. Tôi đến gặp mẹ, đặt trước mặt bà tấm ảnh chị Mai đưa. Mẹ nhìn, giây đầu há hốc miệng – chính biểu cảm đó đã khiến tôi buột miệng: “Có phải là mẹ không?” Bà rùng mình, cầm ly trà lên, bàn tay run run, nước tràn ra đĩa. “Mẹ,” tôi nắm tay bà, “con cần sự thật. Con không dám phạm điều cấm kỵ nào cả. Nếu lỡ đâu… con phải biết.” Mẹ im một lúc rất lâu. Bà thở dài, giọng khàn đi như cây sáo bị sũng nước:
“Ngày đó… mẹ gặp một người đàn ông ở chợ phiên đúng như trong ảnh. Ông ấy bế con, hỏi mẹ đã ăn gì chưa, rồi dắt hai mẹ con vào quán bún. Ông ấy tốt. Nhưng… mẹ đi qua đi lại đời ông, chứ không ở lại được. Mẹ mang ơn, giữ bức ảnh như giữ một vạt trời xanh. Mẹ đặt tên con là Hạ – mùa gặp ông ấy. Nhưng con không phải con của ông. Con… là con của người đàn ông khác, của một đoạn lỡ dở khác. Mẹ xin lỗi.”
Tôi không biết nên khóc hay nên cười. Một phần hoang mang tróc ra, phơi lộ vết da non rát buốt. “Vậy còn vết bớt?” “Mẹ không biết. Từ lúc con sinh ra đã có.” Mẹ đặt tay lên vai tôi, đúng nơi vết bớt, như thử xoa đi một định mệnh. “Đừng chấp vào nó. Đừng để một nốt màu trên da quyết định đời con.”
Nghe vậy, tôi thấy cơn nguôi mảnh như miếng bông băng đặt lên vết rộp: dịu, nhưng vẫn nhói. Tôi biết mình cần hơn thế. Tôi nói với Hoàng: “Mình đi xét nghiệm ADN.” Anh như vừa được thả ra khỏi một cái lồng vô hình: “Ừ.” Anh nắm tay tôi. Đấy là lần đầu sau cưới, tôi thấy nhiệt bàn tay chúng tôi ấm đều, không sượng.
Chị Mai phản đối khi biết chuyện. “Em làm vậy là phá nát nhà này.” Tôi nói: “Em làm vậy để cứu.” Tôi nhìn thẳng vào chị, cái nhìn chừng mực mà tôi đã học từ ba mươi mấy năm sống thẳng lưng với những lời gièm pha “gái quá lứa”, những con mắt thương hại. Chị cúi đầu, phút đầu vẫn ương như đất phèn chưa cải tạo, phút sau bỗng mềm đi như đất gặp mưa: “Thôi thì… nếu vậy chị đi cùng.”
Ngày cầm kết quả, tay tôi ra mồ hôi như vừa bóc vỏ sầu riêng. “Không có quan hệ huyết thống trực hệ giữa đối tượng A và B,” giấy ghi vậy. Mấy chữ đen thẫm ấy như cánh cửa bật ra. Hoàng ôm lấy tôi ngay trên hành lang phòng xét nghiệm. Tôi khóc không thành tiếng – thứ tiếng khóc như hơi nước, vô hình mà làm ướt mọi thứ. Chị Mai ngồi xuống ghế chờ, hai tay ôm mặt. Tôi tưởng chị giận dữ, nhưng khi chị ngẩng lên, tôi thấy chị… nhẹ đi. Nhẹ như một con diều vừa cắt được sợi dây rối vào bụi tre.
“Chị xin lỗi,” chị nói. “Đáng lẽ không nên nói kiểu đó trong đêm.” “Đáng lẽ chị nên nói khi nào?” tôi hỏi. Chị cười, mệt mỏi: “Đời người mấy khi tìm được thời điểm đúng. Chị chỉ biết khi chị thấy vết bớt của em ở góc áo hôm làm lễ gia tiên, tim chị rơi cái ‘bụp’. Chị đã sống nhiều năm với một câu chuyện không gọi tên được. Chị sợ lắm.”
Chúng tôi tưởng vậy là xong. Nhưng cuộc đời hiếm khi dừng ở nửa chừng. Khi người ta đã dấn sâu vào bóng tối, mắt họ quen dần, và họ sẽ phát hiện ra những con đường nữa.
Một tối, mẹ chồng gọi tôi qua nhà. Bà đóng cửa, mở cái rương gỗ từ thời cưới, lôi ra một phong bì cũ, bên trong là một lá thư đã ngả màu vàng, kẹp cùng sổ hộ khẩu cũ mèm. Bà đưa tôi, giọng run: “Con xem đi.”
Trong thư, bố chồng tôi – ông Hữu – viết cho “Em Liên” (tức mẹ chồng): “Anh biết em sẽ đau lòng. Mai là con em và anh… trước khi em lấy anh Hữu. Anh Hữu chấp nhận tất cả, vì tình thương của anh ấy lớn như một cái sân. Anh đi xa. Em đừng tìm. Giữ con lại, đặt tên con Mai – cho nó một mùa xanh. Đừng bao giờ để nó thấy mình là người ngoài. Khi nó lớn, nếu có ai hỏi cha nó là ai, cứ nói là anh Hữu. Anh ấy xứng đáng hơn anh.”
Tôi đọc tới đó, nghe tiếng máu mình chạy như mưa vỗ mái tôn. Tôi nhìn mẹ chồng. Bà gật đầu, nước mắt rơi: “Chuyện này chỉ có ba người lớn biết: ba con, má con, với ông ấy. Ba con dặn không được nói cho Mai. Sợ nó buồn. Ai dè… chị em nó thương nhau như với cũng thành ra gập ghềnh.” Bà chùi nước mắt vào gấu áo: “Còn Hoàng, nó là con ruột của ba con. Nhà này chưa từng có gì khuất tất. Chỉ có chị của nó… là trái ngọt của một ngày bão đến.”
Tôi ngồi lặng. Tôi bỗng thấy mùi mưa – cái mùi vừa lạnh vừa ấm – bốc lên từ kẽ gạch nhà cũ. Tôi hiểu ra vì sao trong ngày ra mắt, chị Mai nhìn gò má tôi – dường như chị đang tìm một dấu chỉ nào đó từ một câu chuyện chị nắm được mơ hồ. Tôi hiểu vì sao chị cắm hoa cúc trắng, thứ hoa vừa tang thương vừa an ủi, trong bình nhà cũ. Cái vết bớt của tôi chỉ là cái cớ, cái kim nhỏ kéo ra sợi chỉ dài, cuối sợi chỉ ấy là một con diều – con diều có tên một người đàn bà và những định kiến.
Tôi hỏi: “Chị Mai biết không?” Mẹ chồng lắc đầu. “Nó biết gì đó – nhưng không hết.” Bà thở dài: “Nói ra thì nhẹ mà nặng. Không nói thì nặng mà lại… nhẹ hơn chăng? Má không biết mình đã làm đúng chưa.”
Tối đó, tôi về, kể Hoàng nghe. Anh lặng người, rồi ôm lấy tôi, như ôm giữ một cây cầu vừa mới biết có thêm một nhịp phụ chưa từng để ý. Chúng tôi quyết định không nói với chị ngay. Nhưng lúc đứng rửa bát, tôi bỗng nghe tiếng lạch cạch trước cửa. Chị Mai đứng đó, mắt sưng húp, tay cầm chiếc bình hoa thủy tinh bầu.
“Em… cho chị gửi nhờ bình nước,” chị nói vô nghĩa. Tôi mời chị vào. Chị vừa ngồi đã bật khóc. “Chị sai rồi. Chị sai lớn. Chị đã lôi em vào một cơn hoang tưởng chị mang từ bé. Hôm nay chị ghé thăm má, vô tình nghe bà nói điện thoại… chị biết rồi.” Chị nghẹn: “Chị không phải con ruột của ba. Chị… là con của người đó. Người mà… có lẽ em cũng từng gặp ở đâu đó trong tấm ảnh. Chị… sợ. Chị sợ bị bỏ lại, sợ mình là người ngoài. Cho nên… chị cố chứng minh mình là người giữ cửa, là người bảo vệ gia đình. Chị làm quá.”
Tôi bước tới, ôm chị. Lần đầu tôi chủ động ôm người đàn bà ấy. Bờ vai chị gầy và cứng như một dải tre phơi nắng lâu ngày. “Chị không là người ngoài,” tôi nói nhỏ. “Người ngoài không ngồi khóc đến sưng mắt vì cả nhà. Người ngoài không chạy vào đêm tân hôn của em với câu nói dở dang tệ hại… mà thật ra chỉ vì sợ.” Tôi đưa tay, khẽ kéo cổ áo chị lệch sang bên, tìm bả vai phải. Không, chị không có vết bớt. Tôi cầm tay chị, đặt lên vết bớt của tôi: “Chị muốn xem thì xem đây.” Chị bật cười trong nước mắt: “Trời đất… em tin chị đến mức cho chị xem bây giờ à.” Tôi cười: “Đêm đó mà chị nói ‘chị thương em’, chắc em còn mất ngủ lâu hơn.”
Chúng tôi ngồi bên nhau, giữa những chén bát sạch, nghe nước nhỏ giọt từ vòi tap vào thau. Tôi rót cho chị cốc nước trà. Chị nói: “Mai chị đi cắm hoa cho nhà thờ. Có một góc để những người muốn thắp hương cho những người họ không thể gọi đúng tên. Chị muốn thắp cho ba ruột chị – cái người mà chị chỉ biết qua một lá thư. Và chị… nếu em không chê, chị muốn thắp thêm một nén cho nỗi sợ của mình, để nó bốc thành khói mà đi.” Tôi gật.
Người ta nói khi tháo giải một nút buộc, sợi dây xung quanh cũng tự nới. Tôi thôi mất ngủ. Đêm tôi nằm nghiêng, gối lên cánh tay Hoàng, thấy tim anh đập như nhịp tàu đi qua cánh đồng – đều đều và chắc chắn. Chúng tôi cười đùa vụn vặt, như đôi vợ chồng trẻ đúng nghĩa. Hoàng làm cho tôi một chiếc kệ gỗ treo bếp, bảo “để chai nước mắm đứng nghiêng bớt rò ra sàn”, tôi chọc “anh mà đẻ được thì chắc cái kệ cũng biết cho sữa”. Thỉnh thoảng, chị Mai ghé, bày món chè bà ba nấu hơi ngọt, tôi vẫn ăn hết, bảo “để dành ngọt cho những chuyện từng mặn.”
Một hôm, chúng tôi cùng mẹ chồng dọn rương cũ. Ở đáy, có một túi vải nhỏ – loại túi cũ mềm như một giấc ngủ sâu – đựng mấy xâu ảnh. Tôi thấy một tấm ảnh màu đã phai, chụp trước cổng đình làng, có một người phụ nữ trẻ ôm đứa bé gái – không phải tôi, không chị – nhưng kỳ lạ, đứa bé ấy có cái bớt hình lá quạt rõ như vẽ. Mẹ chồng nhìn lâu rồi nói: “Có thể là con của người khác đi qua đời ba con. Có thể là một câu chuyện nữa. Đời mà, những mối dây chạm nhau nhiều hơn mình nghĩ.”
Tôi đem tấm ảnh ấy đi phóng to, lồng khung, treo ở bức tường có ánh nắng chiếu vào buổi chiều. Hoàng hỏi: “Em treo người lạ trong nhà?” Tôi nói: “Lạ mà quen. Tấm ảnh nhắc em rằng cuộc đời mình là một chuỗi nối những điều không biết với những điều biết, bằng những sợi chỉ vô hình mang tên lòng tốt.”
Một buổi trưa, đang ngủ thì điện thoại reo. Bên kia là con bé em họ gọi khóc hu hu: “Chị ơi, người ta nói chị Mai không phải con ông, bà, chị có biết chưa?” Tôi thở ra: “Ừ, chị biết. Đừng lấy chuyện đó làm điều để chỉ trỏ. Em nhắn ai nói thì nhắn giùm chị rằng: một người gọi ‘ba’ không chỉ vì ADN.” Tôi cúp máy, trong lòng buồn một chút mà rồi bình thản. Có những làn sóng dư luận đi qua bờ cát, nhất định sẽ để lại vỏ sò lấp lánh. Mình chỉ cần cúi nhặt đúng cái mình muốn giữ.
Chuyện tưởng đâu có thể khép lại bằng một chiếc nơ nhỏ. Nhưng đời không thích đóng nơ. Nó thích… móc thêm một cái chuông.
Một tối, chị Mai báo tin: “Chị gặp lại người đàn ông trong ảnh.” Tôi tưởng chị nói chơi. Nhưng chị kể rằng trong một lần cắm hoa ở nhà thờ, có một bác già dừng lại nhìn bình cúc của chị rất lâu, rồi hỏi: “Con cắm mùi mày – cứ thưa thớ, có kẽ hở cho ánh sáng chen vô. Ai dạy con?” Chị bật cười: “Không ai, con đoán.” Bác ấy bận áo sơ mi trắng, sờn ở cổ, đeo kính cận dày, nét mặt buồn vui lẫn lộn như người giữ nhiều bí mật. Cuối cùng, bác buột miệng: “Ngày trẻ, bác biết một người đàn bà thích cắm cúc như vậy. Bà ấy cắm xong hay chừa một cành non, nói để mai có cái mới.” Chị hỏi: “Bác tên gì?” Ông trả lời, một cái tên rất bình thường mà khi chị đọc lên với mẹ chồng, bà ngồi sụp xuống ghế, tay ôm ngực.
Hóa ra, “người đàn ông đi qua” của mẹ chồng tôi – và cũng là ba ruột của chị Mai – vẫn sống ở thành phố, ở một con ngõ cách nhà thờ ba con phố. Ông chưa từng có gia đình, mấy chục năm sống một mình, dạy văn, viết vài bài báo vụn, chăm một cây khế và một con mèo. Ông bảo: “Ngày xưa, bác yếu đuối, bác chọn đi thay vì ở lại mà thành người phá. Bác nghĩ mọi sự sẽ êm nếu bác lùi. Hóa ra, lùi cũng để lại vết.” Ông nhìn tôi rất lâu, rồi nhìn chị Mai còn lâu hơn. “Bác không muốn lấy lại gì. Bác chỉ… muốn xin phép được treo một bức ảnh trong nhà.” Ông chìa ra bức ảnh cũ – tấm chụp trước cổng đình làng – tôi đã phóng to và treo trên tường. Ông nói: “Giữ giùm bác một góc.”
Chúng tôi đưa ông về, uống trà, nói chuyện trời chuyện biển. Ông cười, cái cười không còn chua, chỉ còn mặn. Trước khi về, ông nhìn vết bớt trên vai tôi – vì tôi mặc áo thun rộng cổ – và cười nữa: “Hồi trẻ, bác viết truyện, đặt tên nhân vật là Lá Quạt. Bà ấy cười, bảo cái tên nghe như một món ăn chống nắng.” Ông không hỏi tôi có phải đứa trẻ trong ảnh hay không. Ông không hỏi gì cả. Tôi hiểu, đôi khi người ta đến với nhau không phải để nối những sợi dây đứt, mà để buộc một cái nơ nhỏ vào mỗi đầu sợi, cho chúng đứng yên.
Đêm đó, tôi ngủ rất sâu, không mơ.
Một năm sau, khi bụng tôi lùm lùm, tôi mới dám lục lại cái đêm tân hôn. Chúng tôi – tôi, Hoàng, chị Mai, và mẹ chồng – ngồi ngoài hiên. Trời hanh. Giàn mướp mẹ trồng trĩu quả. Tôi bảo: “Chị, kể lại đi. Hôm đó, lúc xộc vào, ngoài câu ‘cho chị xem vết bớt’, chị định nói gì nữa?” Chị đỏ mặt: “Định nói ‘chị xin lỗi’.” Tôi cười phá, vừa ôm bụng vừa cười, nước mắt chảy ra. “Chị xin lỗi kiểu vậy thì cả đời em xin tha.” Mẹ chồng vỗ lưng tôi: “Con cười vừa thôi, con nấc cục là con Hoa trong bụng đạp đó.” Tôi xoa bụng, nói nhỏ như nói vào tai đứa bé: “Con gái à, chừng nào lớn nhớ đừng xộc vào phòng ai ban đêm, nói câu cụt cỡn nghe chưa.” Cả nhà cười rộ.
Chị Mai đưa tay, đặt lên bụng tôi, đôi mắt chị ánh lên cái thứ ánh tươi mát mà tôi chưa từng thấy ở chị – ánh mắt của người đặt được bình hoa đúng chỗ. “Cho chị đặt tên đệm cho con,” chị nói. “Tên nó thì ba mẹ nó đặt. Tên đệm, chị muốn đặt là Lá.” Hoàng nhăn mặt: “Tên nghe như một món ăn chống nắng.” Chúng tôi cùng nhìn nhau, cười đến mỏi má.
Tối ấy, tôi treo một chiếc túi vải mới bên cạnh bếp. Trong túi, tôi đặt một bông hoa cúc nhỏ đã khô, một cành lá quạt kẹp vào tờ giấy trắng, và một mảnh giấy ghi câu tôi không muốn quên: “Ở đời, có những vết bớt để nhận ra nhau, không phải để nghi ngờ nhau.”
Tháng tôi sinh, trời lại mưa như đêm thành hôn. Bệnh viện đông, hành lang đầy những tiếng gọi nhau bằng những danh xưng gây thương nhớ: “Mẹ ơi, nín chút đi”, “Anh nghe bác sĩ chưa?”, “Con ơi, con chịu khó nhé…”. Hoàng chạy đi chạy lại như con thoi. Chị Mai ngồi bên, tay sờ sờ lưng tôi, miệng kể chuyện cũ: chuyện chị ngã gãy răng cửa hồi nhỏ, chuyện chị từng trốn học ra bờ sông chỉ để ngồi nghe tiếng nước, chuyện chị thắp hương cho nỗi sợ. Tôi nghe nửa vời, nhưng tiếng chị như một bài hát ru.
Đứa bé chào đời. Con được bọc trong cái khăn tôi may, góc khăn thêu một chiếc lá quạt bằng chỉ xanh. Tôi đặt tên con là An. Không phải Hạ, không phải Mai, không phải Lá – là An – bình yên. Tôi muốn con, từ lúc mở mắt ra nhìn đời, bầu trời của nó đã có sẵn một khoảng “an”.
Ông già ở nhà thờ – người đàn ông trong ảnh – đến thăm, mang theo một giỏ khế. Ông đặt khế lên bàn, nói đùa: “Khế này không phải khế trả ơn.” Mẹ chồng cười: “Nhà này hết chuyện trả ơn từ lâu rồi.” Chúng tôi nhìn nhau, không nói gì thêm, mà dường như những câu “xin lỗi”, “cảm ơn”, “tha thứ” đều đã được nói bằng cách khác.
Tối đó, khi cả nhà ngủ say, tôi bế con đi vòng một vòng quanh nhà. Đèn vàng treo thấp như trái bồ kết chín. Gió vờn nhè nhẹ, mùi sữa mới phảng phất. Tôi đặt con xuống giường, định tắt đèn. Bỗng nhiên, tôi nhớ lại câu đầu tiên của câu chuyện này: “Đừng tắt đèn.” Tôi bật cười, khẽ khàng, trong bóng tối vàng. Ừ, đừng tắt đèn. Dẫu có những đêm mưa, dẫu có những vết bớt, dẫu có những câu nói vụng về như mũi kim đâm trúng thịt, thì vẫn nên giữ một đốm sáng đâu đó, để khi cần, chúng ta nhìn vào nhau mà biết mình không lạc.
Tôi chạm vào bả vai phải. Vết bớt vẫn ở đó, nâu nhạt, hình lá quạt. Tôi không còn ghét nó. Tôi thấy nó như một cái nút nhỏ cài áo thời gian, giữ cho chiếc áo quá khứ khỏi bung ra lộn xộn. Tôi hôn nhẹ lên đó, như hôn lên dấu tay của một người đã đỡ mình qua cái dốc.
Sau này, mỗi khi có ai hỏi vợ chồng tôi duyên do, tôi kể một nửa: rằng tôi lấy Hoàng khi đã quá lứa lỡ thì, rằng đêm tân hôn có người xộc vào nói câu làm tôi mất ngủ tháng trời. Rồi tôi dừng ở đó, nhấp một hớp nước, cười: “Nhưng người ấy bây giờ là người bế con tôi nhiều nhất khi nó khóc.” Ai nghe cũng cười, tưởng tôi nói giỡn. Còn tôi thì biết, đó là cái kết bất ngờ nhất: người khiến ta mất ngủ hóa ra là người đứng canh giấc cho ta ngủ ngon.
Và giữa những bình hoa mà chị Mai cắm, luôn luôn có một khoảng hở – vừa đủ cho ánh sáng chen vào. Ở khoảng hở đó, tôi treo một chiếc chuông nhỏ. Mỗi lần gió lùa, chuông reo leng keng. Tiếng chuông như nhắc: “Đừng tắt đèn.”