Hai mươi năm, cả nhà tôi coi chú như kẻ ăn bám vô tích sự. Ngày chú m/ất, chúng tôi chỉ định thu dọn cho xong. Nhưng khi mở chiếc vali cũ kỹ của chú, cả nhà ch/ết lặng...




 Ngày chú Sáu dọn đến nhà tôi, tôi mới mười tuổi. Một người đàn ông gầy gò, đeo cặp kính trầy xước, tay xách đúng một chiếc vali bạc màu. Chỉ vậy. Không tài sản, không vợ con, không việc làm ổn định.

Chú nói với ba tôi:a“Cho tôi ở nhờ vài tháng. Chừng nào kiếm được việc thì đi.”

Vài tháng… kéo dài thành hai mươi năm.

Trong hai mươi năm đó, chú gần như không mang tiền về nhà. Chú làm lặt vặt khi khỏe: sửa đồng hồ, gò hàn, phụ hồ… nhưng cứ làm được vài tuần là bệnh lại ập tới. Khớp sưng, lưng đau, rồi ho kéo dài. Có lúc chú nằm cả tháng, không đứng nổi.

Mẹ tôi thì khó chịu ra mặt:

“Người ta sống sáu chục tuổi rồi còn ăn bám. Nhà này nuôi thêm cái xác thôi.”

“Đàn ông gì suốt ngày nằm. Có mỗi tiền điện nước chẳng phụ nổi.”

Tôi lớn lên trong những câu càm ràm như vậy.

Chú ít nói, vậy mà mỗi khi tôi đi học về, chú luôn hỏi nhỏ:

“Hôm nay học vui không?”

“Có ai ăn hiếp con không?”

“Thi xong cho chú coi bài nhé.”

Nhưng tôi thì lảng tránh. Tôi nghe quá nhiều câu: “Chú Sáu là gánh nặng”, đến mức tin đó là sự thật.

Năm tháng trôi, tôi đi làm, rồi lấy vợ. Chú vẫn ở đó. Vẫn chiếc vali cũ đặt sát gốc tủ. Vẫn thói quen mỗi sáng pha trà, hít thở nhẹ rồi ho sặc sụa.

Cả nhà ai cũng mặc định: chú cứ ở vậy đến chết.

Ngày chú mất, trời mưa tầm tã.

Buổi trưa, vợ tôi chạy lên phòng làm việc gọi tôi:

“Anh ơi, chú Sáu nằm trong bếp không dậy nổi!”

Tôi xuống thì thấy chú ngồi tựa vào tường, mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu như sợi chỉ. Trên sàn là chén cháo chưa kịp ăn, còn bốc khói.

Chú mở mắt nhìn tôi, cố nói:
“Đừng… gọi xe cấp cứu. Để chú… nghỉ chút…”

Nhưng tôi không nghe. Tôi gọi taxi chở chú vào viện.

Chú nắm tay tôi, mấp máy môi:
“Chú sợ… không về nữa…”

Tôi cười gượng:
“Về chứ. Về chứ chú.”

Nhưng chú không về thật.

Chú mất đêm đó, một cách lặng lẽ, như cách chú sống suốt hai mươi năm.

Sau đám tang, mẹ tôi thở dài:

“Thôi dọn đồ chú đi. Để lại cũng chẳng ai xài.”

Tôi bước vào phòng chú. Phòng nhỏ, chật, có mùi ẩm của thuốc và trà. Vẫn chiếc vali cũ kỹ nằm ngay góc.

Tôi cúi xuống nhấc thử.
Nặng hơn tôi nghĩ.

Vợ tôi đứng cạnh:
“Chắc toàn đồ linh tinh, quăng đi cho rồi.”

Tôi do dự. Hai mươi năm, chú chưa bao giờ cho ai đụng vào vali. Mỗi lần dọn phòng, chú đều tự bê lên giường, chùi từng góc như báu vật.

Nắm lấy hai khóa sắt, tôi bật chúng lên.

Tiếng bật “tách” vang lên khô khốc.
Nắp vali mở ra.

Và tôi… đứng chết lặng.

Trên cùng là một xấp hóa đơn được buộc gọn bằng sợi dây thun đã mục:

hóa đơn viện phí của tôi năm 12 tuổi, khi tôi nhập viện vì sốt xuất huyết

hóa đơn học phí đại học của tôi

hóa đơn sửa nhà khi mái bị dột năm ngoái

hóa đơn thuốc của ba tôi

cả khoản tiền viện phí khi mẹ tôi bị tai nạn xe máy

Tất cả đều ghi:
“Người thanh toán: Nguyễn Văn Sáu.”

Tôi như bị ai đó đấm thẳng vào ngực.

Vợ tôi run run:
“Sao… sao tất cả là chú trả?”

Tôi lật tiếp. Có những hóa đơn được đóng dấu “trả góp”. Có tháng chú trả… đúng 500 ngàn. Có tháng chỉ 200 ngàn.

Tôi chợt hiểu vì sao chú làm bất cứ việc gì, miễn có tiền. Vì sao chú dậy từ 4 giờ sáng đi phụ hồ. Vì sao chú bán chiếc radio cũ mà chú thích nhất.

Không phải chú “ăn bám” nhà tôi.
Chú âm thầm trả tất cả cho chúng tôi.

Dưới lớp hóa đơn là một cuốn vở học sinh bìa đã ngả vàng. Tôi mở ra.

Trang đầu là nét chữ nguệch ngoạc:

Nhật ký của Sáu – viết để khỏi quên.

Tôi lật từng trang. Chữ chú xấu, mực lem, nhưng từng dòng… đâm thẳng vào tim tôi.

“Hôm nay thằng Nam đi học về bị đánh. Nó không nói. Mình thấy áo nó dính đất. Mai mình thử đi theo nó xem.”

Tôi nghẹn họng. Năm lớp 5, tôi từng bị tụi trong xóm chặn đánh. Tôi không kể ai. Hóa ra… chú đã thấy.

“Nó được điểm 9 toán. Muốn khoe với ba mẹ nhưng ai cũng bận. Mình khen nó, nó cười. Mình thấy vui.”

Tôi khựng lại.

Chính tôi cũng đã quên… nhưng chú lại nhớ.

“Nó thi đậu đại học. Cả nhà đều lo học phí. Mình tìm thêm việc ở tiệm sửa xe. Mệt lắm nhưng không sao. Miễn nó được đi học.”

Những trang giấy nhòe mực nước mắt.

Không phải của chú. Của tôi.

“Ba nó đau lưng, không muốn đi chụp MRI vì tốn kém. Mình nói dối là chỗ quen giảm giá. Thực ra là tiền mình dành mấy năm.”

Tôi nuốt không nổi nước bọt.

“Mình không có con. Mình coi tụi nó như con. Mình sợ một ngày mình đi, tụi nó không ai nhớ. Nhưng vậy cũng được. Miễn lúc sống mình giúp được gì thì giúp.”

Tôi buông cuốn sổ, ngồi sụp xuống ghế.

Tôi đã từng xa lánh chú. Tôi từng cho rằng chú là gánh nặng. Tôi từng nghĩ chú chỉ là cái bóng lờ đờ trong nhà.

Nhưng hóa ra…
chú yêu chúng tôi theo cách âm thầm và thiệt thòi nhất.

Dưới cùng vali là một phong bì màu nâu. Trên đó viết:

Để lại cho thằng Nam. Đừng mở trước khi tôi mất.

Tôi run tay mở ra.

Bên trong có sổ tiết kiệm.
Số tiền: 320 triệu.

Tôi gần như không tin vào mắt mình. Một người 20 năm “ăn bám” lấy đâu ra 320 triệu?

Tôi lật mặt sau sổ.
Ghi chú: “Tiền gửi góp mỗi tháng 200–500k, tùy lúc làm được việc.”

Trời ơi…

Chú tôi – người không có gì, người mà cả nhà coi thường –
đã dành dụm từng đồng, từng đồng để lại cho tôi.

Trong phong bì còn một lá thư viết bằng chữ run:

“Nam,

Chú không giỏi nói. Sống nhờ nhà con hai chục năm, chú mang ơn.
Nhưng con đừng nghĩ chú ăn bám. Chú đã cố làm việc nhiều nhất có thể.

Nếu một ngày chú không còn, con hãy lấy số tiền này lo cho gia đình con.
Đừng tiếc, chú để là để cho con.

Chú Sáu”**

Tôi úp mặt vào lá thư. Nước mắt rơi xuống ướt nhòe cả chữ.

Vợ tôi đứng cạnh, khóc nấc.
Mẹ tôi từ cửa bước vào, nhìn vali, nhìn tôi, rồi khuỵu xuống.

“Trời ơi… chú Sáu… sao tới chết rồi mẹ mới biết…”

Tôi định đóng vali lại thì thấy một bọc vải nhỏ nằm sát đáy. Tôi mở ra.

Là một chiếc áo len trẻ con màu xanh, cũ đến mức sờn cả mép.

Ghi chú:
“Áo của con trai tôi – năm nó mất 3 tuổi.”

Tôi chết lặng.

Chú từng có gia đình. Có con. Có cuộc đời riêng.

Nhưng chú chưa từng kể với ai.

Phía dưới áo là ảnh một phụ nữ và một bé trai. Mặt ai cũng hiền.

Dòng cuối trong nhật ký chú viết:

“Nếu vợ con còn sống, chắc giờ cũng bằng tuổi thằng Nam. Thôi, mình thương tụi nó vậy cũng đủ.”

Tôi ôm tấm ảnh vào ngực.
Tôi chưa bao giờ đau như vậy.

Tối hôm đó, cả nhà ngồi quanh phòng chú. Mẹ tôi vừa khóc vừa nói:

“Mẹ sai rồi… Mẹ trách chú suốt hai mươi năm… Mẹ đâu biết chú lo cho tụi bây từng chút…”

Ba tôi ngồi im, mắt đỏ hoe.

Tôi cầm cuốn nhật ký.
Từng chữ, từng dòng, như lời trăn trối.

Tôi nhớ lại bao nhiêu lần chú ngồi ho khan trong góc bếp. Bao nhiêu lần chú cố giấu cơn đau lưng. Bao nhiêu lần chú mỉm cười yếu ớt khi tôi thành công.

Chú chưa từng đòi hỏi gì.
Chưa từng phàn nàn.
Chỉ lặng lẽ ở đó.
Lặng lẽ thương.

Tôi đem chiếc vali của chú về nhà mình.

Không phải để giữ đồ.
Mà để nhắc nhở mình về một sự thật:

Có những người yêu mình bằng cách mà mình không bao giờ nhìn thấy – cho đến khi họ rời đi.

Tôi mở một góc nhỏ trong tủ kính:
để cuốn nhật ký cũ, sổ tiết kiệm, tấm ảnh gia đình chú và chiếc áo len xanh.

Và mỗi lần nhìn vào đó, tôi lại thấy chú Sáu ngồi bên cửa sổ, nhấp ngụm trà nóng, ho nhẹ rồi mỉm cười:

“Nam… ráng sống cho tử tế.”

Tôi thì thầm:

“Chú Sáu… con xin lỗi.
Và… cảm ơn chú vì tất cả.”